-
29/07/2015
Việc điều trị bệnh thận IgA (IgAN) còn nhiều tranh cãi. Từ đầu những năm 1980, nhiều nỗ lực điều trị đã được đề xuất nhưng hầu hết đều không đạt yêu cầu. Các hướng dẫn thực hành lâm sàng mới nhất của KDIGO khuyến cáo rằng bệnh nhân viêm cầu thận có protein nước tiểu vượt quá 1 g/ngày nên được điều trị bằng ACEI hoặc ARB lâu dài, và việc điều chỉnh liều lượng thuốc nên được điều chỉnh theo huyết áp. Các hướng dẫn cũng khuyến cáo rằng bệnh nhân có protein nước tiểu 0,5-1 g/ngày nên được điều trị bằng ACEI và/hoặc ARB. Đối với những người có GFR > 50 ml/phút và protein nước tiểu liên tục hơn 1 g/ngày, nên điều trị glucocorticoid 6 tháng cùng với 3-6 tháng điều trị hỗ trợ tối ưu (thuốc ức chế men chuyển hoặc ARB, kiểm soát huyết áp). Theo quan điểm của thời gian khởi phát và biểu hiện lâm sàng của IgAN, Claudio Pozzi đã đề xuất một phương pháp điều trị tiên bộ dựa trên kinh nghiệm lâm sàng và kết quả tổng quan tài liệu của ông.
Bệnh nhân tiểu máu và protein nước tiểu dưới 0,3 g/ngày soi dưới kính hiển vi chỉ cần khám sức khỏe hàng năm.
Bệnh nhân có protein nước tiểu 0,3-0,9 g/ngày, điều trị ức chế men chuyển và/hoặc ARB, chuẩn độ liều lượng thuốc.
Bệnh nhân có protein nước tiểu cao hơn 1 g/ngày, tăng huyết áp động mạch và GFR đạt 30 ml/phút, ngoài điều trị ACEI và/hoặc ARB, điều trị glucocorticoid trong 6 tháng.
Nếu GFR dưới 30 ml/phút, điều trị ACEI/ARB, lọc máu và ghép thận.
Bệnh nhân có protein niệu cao liên tục hoặc tăng protein nước tiểu liên tục nên cân nhắc điều trị bằng glucocorticoid. Bệnh nhân suy thận tiến triển hoặc sinh thiết thận cho thấy viêm mạch máu nên được điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch (cyclophosphamide và azathioprine).
Kết quả cho thấy tất cả bệnh nhân IgAN cần được điều trị tích cực, nhưng cần lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp tùy theo thời điểm chẩn đoán và nhập viện. Mục đích điều trị không giống nhau: một số bệnh nhân có thể thuyên giảm hoàn toàn, trong khi những người khác có thể làm chậm sự tiến triển của tổn thương thận. Đến nay, thuốc chẹn RAS và glucocorticoid là những phương pháp điều trị IgAN hiệu quả nhất.
Điều trị bệnh thận IgA như thế nào và cần lưu ý những gì trong quá trình điều trị?
Đối với bệnh nhân suy thận có hoặc không kèm theo tăng huyết áp, trọng tâm điều trị là kiểm soát tăng huyết áp, bảo vệ chức năng thận và trì hoãn sự suy giảm chức năng thận. Thuốc ức chế men chuyển (ACEI, chẳng hạn như enalapril, benazepril), thuốc đối kháng thụ thể angiotensin (ARB, chẳng hạn như valsartan, losartan, v.v.), và gần đây đã có những nghiên cứu sử dụng chất đối kháng canxi (CCB, chẳng hạn như amlodipine) để kiểm soát bệnh nhân tốt hơn. Huyết áp, trì hoãn sự tiến triển của suy thận.
Đối với bệnh nhân bị bệnh thận IgA có biểu hiện lâm sàng là viêm thận tiến triển nhanh, nguyên tắc điều trị giống như viêm thận tiến triển nhanh. Có thể sử dụng liệu pháp xung methylprednisolone, liệu pháp xung cyclophosphamide và (hoặc) trao đổi huyết tương để điều trị. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng dipyridamole và warfarin liên tục có thể cải thiện sự phát triển của xơ vữa cầu thận và trì hoãn sự xuất hiện của suy thận giai đoạn cuối, nhưng vẫn thiếu bằng chứng y tế dựa trên bằng chứng.
Điều trị bệnh thận IgA như thế nào và cần lưu ý những gì trong quá trình điều trị?
Cần chú ý điều trị bệnh thận IgA:
Điều trị tích cực những bệnh nhân có lượng protein niệu lớn, đái máu dai dẳng hoặc tăng huyết áp nặng, theo dõi chất cháy và đưa ra các biện pháp bảo vệ hợp lý để ngăn chặn sự phát triển của bệnh thận IgA.
Đối với những bệnh nhân mắc bệnh thận IgA nặng, chỉ cần protein nước tiểu giảm và chậm tiến triển tổn thương thận là đã thành công, chúng ta không thể mù quáng theo dõi sự biến mất của protein trong nước tiểu, để lâu ngày sẽ gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng và gây tử vong. Kinh nghiệm của chúng tôi chỉ cần uống nước tiểu 24h. Nếu protein dưới 1g, việc điều trị nên tương đối nhẹ, và không cần điều trị quá mức để loại bỏ một lượng nhỏ protein trong nước tiểu.
Tránh sử dụng các loại thuốc gây độc cho thận, và thường xuyên theo dõi chức năng gan và thận khi sử dụng thuốc ức chế miễn dịch.
Bệnh nhân tiểu máu và protein nước tiểu dưới 0,3 g/ngày soi dưới kính hiển vi chỉ cần khám sức khỏe hàng năm.
Bệnh nhân có protein nước tiểu 0,3-0,9 g/ngày, điều trị ức chế men chuyển và/hoặc ARB, chuẩn độ liều lượng thuốc.
Bệnh nhân có protein nước tiểu cao hơn 1 g/ngày, tăng huyết áp động mạch và GFR đạt 30 ml/phút, ngoài điều trị ACEI và/hoặc ARB, điều trị glucocorticoid trong 6 tháng.
Nếu GFR dưới 30 ml/phút, điều trị ACEI/ARB, lọc máu và ghép thận.
Bệnh nhân có protein niệu cao liên tục hoặc tăng protein nước tiểu liên tục nên cân nhắc điều trị bằng glucocorticoid. Bệnh nhân suy thận tiến triển hoặc sinh thiết thận cho thấy viêm mạch máu nên được điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch (cyclophosphamide và azathioprine).
Kết quả cho thấy tất cả bệnh nhân IgAN cần được điều trị tích cực, nhưng cần lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp tùy theo thời điểm chẩn đoán và nhập viện. Mục đích điều trị không giống nhau: một số bệnh nhân có thể thuyên giảm hoàn toàn, trong khi những người khác có thể làm chậm sự tiến triển của tổn thương thận. Đến nay, thuốc chẹn RAS và glucocorticoid là những phương pháp điều trị IgAN hiệu quả nhất.
Điều trị bệnh thận IgA như thế nào và cần lưu ý những gì trong quá trình điều trị?
Đối với bệnh nhân suy thận có hoặc không kèm theo tăng huyết áp, trọng tâm điều trị là kiểm soát tăng huyết áp, bảo vệ chức năng thận và trì hoãn sự suy giảm chức năng thận. Thuốc ức chế men chuyển (ACEI, chẳng hạn như enalapril, benazepril), thuốc đối kháng thụ thể angiotensin (ARB, chẳng hạn như valsartan, losartan, v.v.), và gần đây đã có những nghiên cứu sử dụng chất đối kháng canxi (CCB, chẳng hạn như amlodipine) để kiểm soát bệnh nhân tốt hơn. Huyết áp, trì hoãn sự tiến triển của suy thận.
Đối với bệnh nhân bị bệnh thận IgA có biểu hiện lâm sàng là viêm thận tiến triển nhanh, nguyên tắc điều trị giống như viêm thận tiến triển nhanh. Có thể sử dụng liệu pháp xung methylprednisolone, liệu pháp xung cyclophosphamide và (hoặc) trao đổi huyết tương để điều trị. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng dipyridamole và warfarin liên tục có thể cải thiện sự phát triển của xơ vữa cầu thận và trì hoãn sự xuất hiện của suy thận giai đoạn cuối, nhưng vẫn thiếu bằng chứng y tế dựa trên bằng chứng.
Điều trị bệnh thận IgA như thế nào và cần lưu ý những gì trong quá trình điều trị?
Cần chú ý điều trị bệnh thận IgA:
Điều trị tích cực những bệnh nhân có lượng protein niệu lớn, đái máu dai dẳng hoặc tăng huyết áp nặng, theo dõi chất cháy và đưa ra các biện pháp bảo vệ hợp lý để ngăn chặn sự phát triển của bệnh thận IgA.
Đối với những bệnh nhân mắc bệnh thận IgA nặng, chỉ cần protein nước tiểu giảm và chậm tiến triển tổn thương thận là đã thành công, chúng ta không thể mù quáng theo dõi sự biến mất của protein trong nước tiểu, để lâu ngày sẽ gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng và gây tử vong. Kinh nghiệm của chúng tôi chỉ cần uống nước tiểu 24h. Nếu protein dưới 1g, việc điều trị nên tương đối nhẹ, và không cần điều trị quá mức để loại bỏ một lượng nhỏ protein trong nước tiểu.
Tránh sử dụng các loại thuốc gây độc cho thận, và thường xuyên theo dõi chức năng gan và thận khi sử dụng thuốc ức chế miễn dịch.