-
03/03/2025
Lôi Công Đằng (Tripterygium wilfordii Hook F)
Lôi Công Đằng ( viết tắt TWHF), một loại thảo mộc truyền thống của Trung Quốc có đặc tính chống viêm và ức chế miễn dịch mạnh, đã được sử dụng từ những năm 1980 để điều trị hội chứng thận hư. Một số thực nghiệm đã báo cáo hiệu quả của Tripterygium glycosides, một chiết xuất tan trong chất béo từ rễ của TWHF, trong việc hỗ trợ sử dụng steroid để điều trị hội chứng thận hư. Khi đơn trị liệu TWHF và liệu pháp phối hợp TWHF-steroid được đánh giá ở 84 bệnh nhân, sau 12 tháng điều trị, TWHF đơn thuần đã cải thiện protein niệu, nhưng liệu pháp phối hợp đạt tỷ lệ thuyên giảm cao hơn nhiều so với TWHF đơn thuần (76,7% so với 43,9%). Hai nghiên cứu sau đó đã so sánh hiệu quả của phối hợp TWHF-steroid và kết hợp tacrolimus-steroid trong hội chứng thận hư. Báo cáo cho thấy hai phương pháp điều trị đạt tỷ lệ hiệu quả tương đương (76,9% so với 79,9%) sau 12 tháng, nhưng nhóm TWHG-steroid có tỷ lệ tái phát thấp hơn nhóm tacrolimus-steroid (30,6% so với 52,5%) 6 tháng sau khi ngừng điều trị. . Nhóm TWHG-steroid cũng có tỷ lệ tăng gấp đôi creatinin huyết thanh thấp hơn, cho thấy chức năng thận ít bị suy giảm hơn. Một phân tích tổng hợp gần đây gồm 18 nghiên cứu phân tích 1.236 bệnh nhân người lớn mắc hội chứng thận hư nguyên phát đã chứng minh hiệu quả cao hơn của TWHG kết hợp với steroid so với đơn trị liệu steroid. Hai tổng quan phân tích tổng hợp trước đó cũng cho thấy tác dụng có lợi của TWHF trong việc làm thuyên giảm hội chứng thận hư và RNS.
Nghệ (Curcumin) được các nước phát triển ứng dụng điều trị hội chứng thận hư với biến chứng thận bị xơ cứng. Curcumin giảm các hợp chất gây viêm, IgG và bổ thể sự kích hoạt. Curcumin làm giảm bớt qua trung gian phức hợp miễn dịch viêm cầu thận ở chuột thiếu yếu tố H.
Tỏi. Trong lâm sàng điều trị về hội chứng thận hư, tỏi không làm giảm protein niệu nó hạn chế và hồi phục được số lượng cầu thận bị hư hỏng, thực tế cho thấy khu vực của cầu thận bị hư hỏng là nhỏ hơn sau khi điều trị. Tỏi cũng giúp hạ cholesterol, tỏi làm tăng lipid máu trong bệnh thận mãn tính và hội chứng thận hư.
Hoa Hòe. Rutin là hợp chất Glycosid thuộc nhóm Flavonoid Aglycon (đồng yếu tố của vitamin C) được triết xuất từ Hoa Hòe và còn được tìm thấy trong thực phẩm - kiều mạch, vỏ táo, quả sung và trà rooibos. Là một loại vitamin P có tác dụng tăng cường sức chịu đựng của mao mạch, làm bền thành mạch, khi thiếu vitamin này tính chất chịu đựng của mao mạch giảm, dễ đứt vỡ...
Tương tự về mặt hóa học với quercetin, một chất chống oxy hóa / chất chống gây viêm. Rutin có thể làm giảm creatinine, BUN và protein niệu. Đồng thời giúp giảm xơ cứng và chấn thương ống thận. Rutin cải thiện quá trình xơ hóa thận và protein niệu ở người bị thận hư do chống oxy hóa và ức chế sự hoạt hóa củaTGFβ1-smad.
Địa hoàng (Rehmannia). Rehmannia glutinosa có lịch sử lâu đời sử dụng ở Trung Quốc. Được coi là một trong những 50 loại thảo mộc cơ bản trong truyền thống Y học Trung Quốc. Rehmannia làm giảm protein niệu trong hội chứng thận hư, giảm xơ hóa và chứng xơ cứng thận. Nó cũng giúp giảm creatinin huyết thanh và huyết áp. Rehmannia glutinosa cải thiện suy thận tiến triển do ghép thận.
Keo ong đỏ Brazil. Keo ong đỏ Brazil là sản phẩm một loài ong cụ thể. Trong ứng dụng điều trị bệnh thận mãn tính cho thấy nó có ý nghĩa điều trị: Tăng huyết áp, protein niệu, creatinine huyết thanh, xơ cứng cầu thận, thâm nhập đại thực bào thận, stress oxy hóa thận. Keo ong đỏ Brazil cũng làm giảm độ ẩm và hạn chế tăng huyết áp, tổn thương thận trong phẫu thuật ghép thận.
Hà Thủ Ô (Fo-Ti). Hà Thủ Ô được phát hiện là hữu ích chống lại viêm cầu thận xơ hoá khu trú từng phần hay viêm cầu thận phân đoạn khu trú (FSGS). Loại thảo mộc truyền thống của tuổi thọ ở Trung Quốc, thường được sử dụng nhất đối với chứng rụng tóc và bạc tóc ở phương Tây. Chiết xuất từ loại thảo mộc này ức chế protein niệu, bảo vệ chống lại sự phá hủy tế bào podocyte, giảm gen fibrotic biểu hiện ở thận và làm giảm bớt mức độ nghiêm trọng của xơ vữa cầu thận. Hợp chất tự nhiên tetrahydroxystilbene-2-O-β-d glucoside bảo vệ chống lại adriamycin gây rabệnh thận thông qua việc kích hoạt Nrf2-Keap1- con đường chống oxy hóa.
Dứa (quả Thơm). Sử dụng bromelain, một loại enzym ở dạng viên nang,có nguồn gốc từ Dứa, phổ biến chất chống gây viêm trong y học tự nhiên. Wobenzyme, một sản phẩm enzyme cụ thể,được nghiên cứu để ức chế sự xơ cứng của thận. Hàm lượng fibronectin trong nước tiểu của bệnh nhân với bệnh viêm cầu thận mãn tính như một kết quả minh chứng cho hiệu quả của việc điều trị.
Y học cổ truyền TCM hỗ trợ liệu pháp ức chế miễn dịch cho hội chứng thận hư RNS.
Như đã đề cập ở trên, trong các lý thuyết y học cổ truyền, cấu tạo cơ bản của cơ thể đối với hội chứng thận hư chủ yếu là Thiếu dương dẫn đến giữ nước với các biến chứng thứ phát như Huyết ứ. Liệu pháp tiêu chuẩn cho hội chứng thận hư trong y học thông thường là corticosteroid kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác. Các liệu pháp ức chế miễn dịch này thường chuyển bệnh lý của hội chứng thận hư sang hướng mất cân bằng Âm-Dương hơn nữa. Ở góc độ TCM, corticoid là thuốc Dương thuần, có tính nóng. Các chất lỏng tích tụ trong cơ thể, khi bị các tác nhân Dương đó đốt nóng, tất yếu sẽ sinh ra Nhiệt ẩm dẫn đến Thiếu Âm, Thừa Dương. Điều này sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch vành và loãng xương, với các triệu chứng như đỏ bừng mặt, béo phì, mụn trứng cá, mất ngủ, đa chứng, chứng đa não, chứng tăng tiết nước, tiểu đêm và xuất tinh sớm. Mặt khác, các chất ức chế miễn dịch như cyclophosphamide, mycophenolate mofetil, cyclosporin, tacrolimus, và rituximab là những chất có tính chất lạnh. Sử dụng lâu dài các loại thuốc này làm tổn hại đến Dương khí và làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu dương và thừa âm, biểu hiện là kém ăn, đầy bụng, buồn nôn và nôn, khó thở và mệt mỏi, không chịu được lạnh, nhiễm trùng thường xuyên, ức chế tủy xương và ức chế sinh sản.
Do đó, mất cân bằng Âm-Dương trầm trọng là vấn đề cốt lõi mà bệnh nhân RNS phải đối mặt, góp phần vào mô hình thuyên giảm và tái phát mãn tính cũng như các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Dựa trên quan điểm này, chiến lược TCM cho những bệnh nhân RNS khó điều trị đang gặp tác dụng độc hại nghiêm trọng là khôi phục sự cân bằng Âm-Dương và giảm thiểu liều lượng thuốc ức chế miễn dịch để giảm tác dụng phụ, nâng cao hiệu quả điều trị và ổn định môi trường bên trong. Đối với những bệnh nhân điều trị bằng steroid, các công thức thảo dược có tác dụng nuôi dưỡng Âm và ngăn chặn Dương được sử dụng, trong đó có bài thuốc Lục vị địa hoàng thang là công thức đại diện trong danh mục này. Đối với những bệnh nhân đang dùng các chất ức chế miễn dịch khác, các công thức thảo dược giúp nuôi dưỡng Dương và tăng cường Khí được sử dụng, với Thuốc sắc bổ tỳ vị Shi Pi Yin làm công thức đại diện. Đối với những bệnh nhân có khả năng miễn dịch thấp và thường xuyên bị nhiễm trùng, công thức thảo dược đại diện là Bát trân thang. Tùy theo tình trạng bệnh nhân, các công thức này có thể kết hợp và sửa đổi để phục vụ tốt nhất cho từng bệnh nhân trong các giai đoạn tiến triển của bệnh.
Lôi Công Đằng ( viết tắt TWHF), một loại thảo mộc truyền thống của Trung Quốc có đặc tính chống viêm và ức chế miễn dịch mạnh, đã được sử dụng từ những năm 1980 để điều trị hội chứng thận hư. Một số thực nghiệm đã báo cáo hiệu quả của Tripterygium glycosides, một chiết xuất tan trong chất béo từ rễ của TWHF, trong việc hỗ trợ sử dụng steroid để điều trị hội chứng thận hư. Khi đơn trị liệu TWHF và liệu pháp phối hợp TWHF-steroid được đánh giá ở 84 bệnh nhân, sau 12 tháng điều trị, TWHF đơn thuần đã cải thiện protein niệu, nhưng liệu pháp phối hợp đạt tỷ lệ thuyên giảm cao hơn nhiều so với TWHF đơn thuần (76,7% so với 43,9%). Hai nghiên cứu sau đó đã so sánh hiệu quả của phối hợp TWHF-steroid và kết hợp tacrolimus-steroid trong hội chứng thận hư. Báo cáo cho thấy hai phương pháp điều trị đạt tỷ lệ hiệu quả tương đương (76,9% so với 79,9%) sau 12 tháng, nhưng nhóm TWHG-steroid có tỷ lệ tái phát thấp hơn nhóm tacrolimus-steroid (30,6% so với 52,5%) 6 tháng sau khi ngừng điều trị. . Nhóm TWHG-steroid cũng có tỷ lệ tăng gấp đôi creatinin huyết thanh thấp hơn, cho thấy chức năng thận ít bị suy giảm hơn. Một phân tích tổng hợp gần đây gồm 18 nghiên cứu phân tích 1.236 bệnh nhân người lớn mắc hội chứng thận hư nguyên phát đã chứng minh hiệu quả cao hơn của TWHG kết hợp với steroid so với đơn trị liệu steroid. Hai tổng quan phân tích tổng hợp trước đó cũng cho thấy tác dụng có lợi của TWHF trong việc làm thuyên giảm hội chứng thận hư và RNS.
Nghệ (Curcumin) được các nước phát triển ứng dụng điều trị hội chứng thận hư với biến chứng thận bị xơ cứng. Curcumin giảm các hợp chất gây viêm, IgG và bổ thể sự kích hoạt. Curcumin làm giảm bớt qua trung gian phức hợp miễn dịch viêm cầu thận ở chuột thiếu yếu tố H.
Tỏi. Trong lâm sàng điều trị về hội chứng thận hư, tỏi không làm giảm protein niệu nó hạn chế và hồi phục được số lượng cầu thận bị hư hỏng, thực tế cho thấy khu vực của cầu thận bị hư hỏng là nhỏ hơn sau khi điều trị. Tỏi cũng giúp hạ cholesterol, tỏi làm tăng lipid máu trong bệnh thận mãn tính và hội chứng thận hư.
Hoa Hòe. Rutin là hợp chất Glycosid thuộc nhóm Flavonoid Aglycon (đồng yếu tố của vitamin C) được triết xuất từ Hoa Hòe và còn được tìm thấy trong thực phẩm - kiều mạch, vỏ táo, quả sung và trà rooibos. Là một loại vitamin P có tác dụng tăng cường sức chịu đựng của mao mạch, làm bền thành mạch, khi thiếu vitamin này tính chất chịu đựng của mao mạch giảm, dễ đứt vỡ...
Tương tự về mặt hóa học với quercetin, một chất chống oxy hóa / chất chống gây viêm. Rutin có thể làm giảm creatinine, BUN và protein niệu. Đồng thời giúp giảm xơ cứng và chấn thương ống thận. Rutin cải thiện quá trình xơ hóa thận và protein niệu ở người bị thận hư do chống oxy hóa và ức chế sự hoạt hóa củaTGFβ1-smad.
Địa hoàng (Rehmannia). Rehmannia glutinosa có lịch sử lâu đời sử dụng ở Trung Quốc. Được coi là một trong những 50 loại thảo mộc cơ bản trong truyền thống Y học Trung Quốc. Rehmannia làm giảm protein niệu trong hội chứng thận hư, giảm xơ hóa và chứng xơ cứng thận. Nó cũng giúp giảm creatinin huyết thanh và huyết áp. Rehmannia glutinosa cải thiện suy thận tiến triển do ghép thận.
Keo ong đỏ Brazil. Keo ong đỏ Brazil là sản phẩm một loài ong cụ thể. Trong ứng dụng điều trị bệnh thận mãn tính cho thấy nó có ý nghĩa điều trị: Tăng huyết áp, protein niệu, creatinine huyết thanh, xơ cứng cầu thận, thâm nhập đại thực bào thận, stress oxy hóa thận. Keo ong đỏ Brazil cũng làm giảm độ ẩm và hạn chế tăng huyết áp, tổn thương thận trong phẫu thuật ghép thận.
Hà Thủ Ô (Fo-Ti). Hà Thủ Ô được phát hiện là hữu ích chống lại viêm cầu thận xơ hoá khu trú từng phần hay viêm cầu thận phân đoạn khu trú (FSGS). Loại thảo mộc truyền thống của tuổi thọ ở Trung Quốc, thường được sử dụng nhất đối với chứng rụng tóc và bạc tóc ở phương Tây. Chiết xuất từ loại thảo mộc này ức chế protein niệu, bảo vệ chống lại sự phá hủy tế bào podocyte, giảm gen fibrotic biểu hiện ở thận và làm giảm bớt mức độ nghiêm trọng của xơ vữa cầu thận. Hợp chất tự nhiên tetrahydroxystilbene-2-O-β-d glucoside bảo vệ chống lại adriamycin gây rabệnh thận thông qua việc kích hoạt Nrf2-Keap1- con đường chống oxy hóa.
Dứa (quả Thơm). Sử dụng bromelain, một loại enzym ở dạng viên nang,có nguồn gốc từ Dứa, phổ biến chất chống gây viêm trong y học tự nhiên. Wobenzyme, một sản phẩm enzyme cụ thể,được nghiên cứu để ức chế sự xơ cứng của thận. Hàm lượng fibronectin trong nước tiểu của bệnh nhân với bệnh viêm cầu thận mãn tính như một kết quả minh chứng cho hiệu quả của việc điều trị.
Y học cổ truyền TCM hỗ trợ liệu pháp ức chế miễn dịch cho hội chứng thận hư RNS.
Như đã đề cập ở trên, trong các lý thuyết y học cổ truyền, cấu tạo cơ bản của cơ thể đối với hội chứng thận hư chủ yếu là Thiếu dương dẫn đến giữ nước với các biến chứng thứ phát như Huyết ứ. Liệu pháp tiêu chuẩn cho hội chứng thận hư trong y học thông thường là corticosteroid kết hợp với các thuốc ức chế miễn dịch khác. Các liệu pháp ức chế miễn dịch này thường chuyển bệnh lý của hội chứng thận hư sang hướng mất cân bằng Âm-Dương hơn nữa. Ở góc độ TCM, corticoid là thuốc Dương thuần, có tính nóng. Các chất lỏng tích tụ trong cơ thể, khi bị các tác nhân Dương đó đốt nóng, tất yếu sẽ sinh ra Nhiệt ẩm dẫn đến Thiếu Âm, Thừa Dương. Điều này sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch vành và loãng xương, với các triệu chứng như đỏ bừng mặt, béo phì, mụn trứng cá, mất ngủ, đa chứng, chứng đa não, chứng tăng tiết nước, tiểu đêm và xuất tinh sớm. Mặt khác, các chất ức chế miễn dịch như cyclophosphamide, mycophenolate mofetil, cyclosporin, tacrolimus, và rituximab là những chất có tính chất lạnh. Sử dụng lâu dài các loại thuốc này làm tổn hại đến Dương khí và làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu dương và thừa âm, biểu hiện là kém ăn, đầy bụng, buồn nôn và nôn, khó thở và mệt mỏi, không chịu được lạnh, nhiễm trùng thường xuyên, ức chế tủy xương và ức chế sinh sản.
Do đó, mất cân bằng Âm-Dương trầm trọng là vấn đề cốt lõi mà bệnh nhân RNS phải đối mặt, góp phần vào mô hình thuyên giảm và tái phát mãn tính cũng như các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Dựa trên quan điểm này, chiến lược TCM cho những bệnh nhân RNS khó điều trị đang gặp tác dụng độc hại nghiêm trọng là khôi phục sự cân bằng Âm-Dương và giảm thiểu liều lượng thuốc ức chế miễn dịch để giảm tác dụng phụ, nâng cao hiệu quả điều trị và ổn định môi trường bên trong. Đối với những bệnh nhân điều trị bằng steroid, các công thức thảo dược có tác dụng nuôi dưỡng Âm và ngăn chặn Dương được sử dụng, trong đó có bài thuốc Lục vị địa hoàng thang là công thức đại diện trong danh mục này. Đối với những bệnh nhân đang dùng các chất ức chế miễn dịch khác, các công thức thảo dược giúp nuôi dưỡng Dương và tăng cường Khí được sử dụng, với Thuốc sắc bổ tỳ vị Shi Pi Yin làm công thức đại diện. Đối với những bệnh nhân có khả năng miễn dịch thấp và thường xuyên bị nhiễm trùng, công thức thảo dược đại diện là Bát trân thang. Tùy theo tình trạng bệnh nhân, các công thức này có thể kết hợp và sửa đổi để phục vụ tốt nhất cho từng bệnh nhân trong các giai đoạn tiến triển của bệnh.