-
10/07/2018
Bệnh thận IgA
Bệnh thận IgA là bệnh cầu thận nguyên phát phổ biến nhất trên toàn thế giới, với biểu hiện lâm sàng và bệnh lý rất đa dạng. Về mặt lâm sàng, bệnh có thể từ đại máu không triệu chứng đến viêm cầu thận tiến triển nhanh hoặc hội chứng thận hư, một phần của tình trạng giảm thiểu máu, liên quan đến tiên lượng. Về mặt bệnh lý, có thể tồn tại nhiều loại tổn thương cầu thận. Những đặc điểm này đã mang lại những khó khăn nhất định cho việc lựa chọn và xây dựng kế hoạch điều trị lâm sàng cho bệnh nhân bệnh thận IgA.
Tại cuộc họp thường niên năm 2016 của Chi hội Thận học của Hiệp hội Y tế tỉnh Hà Bắc được tổ chức từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 11 năm 2016, Giáo sư Li Xuemei từ Khoa Thận, Bệnh viện Đại học Y Công đoàn Bắc Kinh, đã chia sẻ tiến trình nghiên cứu và kinh nghiệm về liệu pháp miễn dịch của bệnh thận IgA.
Các chỉ số tiên lượng cho bệnh nhân mắc bệnh thận IgA
Tỷ lệ sống được thống kê của 495 bệnh nhân mắc bệnh thận IgA tại Bệnh viện Đại học Y tế Công đoàn Bắc Kinh cho thấy trong số những bệnh nhân này, tỷ lệ sống sót của những bệnh nhân có protein nước tiểu trong 24 giờ ≥3 g, nồng độ creatinin huyết thanh ≥133 µmol/L, và tăng huyết áp và tiểu máu đại thể thấp hơn. Năm 2004, D'Amico và cộng sự đã phân tích 23 tài liệu liên quan trong 20 năm qua và nhận thấy rằng suy thận, protein niệu nặng và tăng huyết áp khi sinh thiết thận là những dấu hiệu tiên lượng đáng tin cậy về mặt lâm sàng, và protein niệu trong thời gian theo dõi mạnh hơn. Các chỉ số dự đoán. Năm 2011, phân tích 1126 bệnh nhân mắc bệnh thận IgA được báo cáo bởi Le Weibo và cộng sự cũng cho thấy rằng protein nước tiểu > 1 g/24 giờ, huyết áp > 140/90 mmHg và eGFR <60 ml/(m²) trong sinh thiết thận là tiên lượng của thận. Các yếu tố nguy cơ độc lập đối với bệnh nhân; protein nước tiểu trung bình theo dõi > 1 g/24 giờ gặp 9,8 lần nguy cơ bước vào giai đoạn cuối gặp 9,8 lần so với protein nước tiểu <1 g/24 giờ. Cũng có sự khác biệt rất đáng kể giữa áp lực động mạch trung bình theo dõi và tiên lượng thận dài hạn. Tương quan.
Dựa trên các nghiên cứu và tài liệu ở trên, Giáo sư Li đã chỉ ra rằng các yếu tố tiên lượng mạnh mẽ về tiên lượng của bệnh nhân mắc bệnh thận IgA bao gồm: tăng creatinin huyết thanh, protein niệu nặng, tăng huyết áp, xơ vữa cầu thận mở rộng và/hoặc phân đoạn và/hoặc các ống thận trọc. Tổn thương kẽ, cầu thận và tổn thương mô ống dẫn đến có điểm số cao hoặc tổn thương loại IV và loại V; các chỉ số tiên lượng trung bình bao gồm: tăng huyết áp mạch máu, tăng sản ngoài mao mạch đáng kể. Dưới góc độ các yếu tố bệnh lý, Giáo sư Li đã kết hợp nghiên cứu liên quan của Bệnh viện Đại học Y liên hiệp Bắc Kinh và Bệnh viện đầu tiên của Đại học Bắc Kinh và so sánh với nghiên cứu của Oxford. Trong số các chỉ số phân loại của Oxford, chỉ có teo ống thận/xơ hóa mô kẽ là ảnh hưởng đến thận. Các yếu tố nguy cơ độc lập để tiên lượng.
Chỉ số theo dõi hoạt động bệnh thận IgA
Giáo sư Li chỉ ra rằng trong điều trị bệnh nhân mắc bệnh thận IgA, cần xác định chính xác các tổn thương hoạt động cấp tính càng sớm càng tốt, điều này rất quan trọng để kiểm soát kịp thời tiên lượng của bệnh.
Các chỉ số lâm sàng để đánh giá tình trạng bệnh thận IgA bao gồm: tiểu máu nặng dần, tiểu đạm, huyết áp tăng và giảm chức năng thận. Trong các chỉ số xét nghiệm, sự gia tăng IL-6 niệu có liên quan chặt chẽ đến sự tăng sinh của tế bào trung bì và tổn thương mô kẽ. Mối quan hệ của các hoạt động đang được nghiên cứu. Giáo sư Li nhấn mạnh rằng “các chỉ số bệnh lý là những chỉ số vàng để đánh giá hoạt động của bệnh thận IgA, bao gồm tăng sinh tế bào trung bì, tăng sinh nội mao mạch, hình liềm tế bào, hoại tử fibrinoid vòng mao mạch, thâm nhiễm tế bào viêm kẽ và phù nề, podocyte rụng hoặc mất tích,…”. Vì vậy, việc sinh thiết và sinh thiết nhiều lần là rất quan trọng.
Liệu pháp miễn dịch cho bệnh nhân mắc bệnh thận IgA
Giáo sư Li lần đầu tiên nhấn mạnh rằng tổn thương miễn dịch là cơ chế gây bệnh của bệnh thận IgA, vì vậy ức chế miễn dịch là cơ sở để điều trị bệnh thận IgA. Chìa khóa để dùng thuốc cho bệnh nhân mắc bệnh thận IgA là các thế hệ hóa và tiến bộ theo thời đại.
Trong suốt quá trình điều trị trong 30 năm qua, liệu pháp hormon tiêm tĩnh mạch hoặc uống có tác dụng đáng kể trong việc giảm tỷ lệ bài tiết protein và ngăn ngừa tăng nồng độ creatinin trong máu; điều trị kết hợp hormon và thuốc độc tế bào có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót sau thận của bệnh nhân mắc bệnh thận IgA tiến triển. , cũng có thể làm giảm đáng kể sự bài tiết protein niệu.
Giáo sư Li chỉ ra rằng sử dụng hợp lý và an toàn các chất ức chế miễn dịch có thể cải thiện tiên lượng của bệnh nhân mắc bệnh thận IgA. Trong nghiên cứu nói trên của Bệnh viện Đại học Y tế Công đoàn Bắc Kinh, tỷ lệ sử dụng hormone và thuốc ức chế miễn dịch cao tới 65% và 82%. Ở thời gian theo dõi trung bình trong 39 tháng, tỷ lệ mắc bệnh thận giai đoạn cuối chỉ là 2,8%.
Trong số các thuốc ức chế miễn dịch, cyclophosphamide (CTX) là loại thuốc được lựa chọn. Ngoài ra, cũng có thể sử dụng mycophenolate mofetil (MMF), và các chất ức chế calmodulin (cyclosporine A, FK506), hydroxychloroquine và Imuran cũng là những chất ức chế miễn dịch tùy chọn. Trong quá trình áp dụng thuốc ức chế miễn dịch, cần theo dõi tổng số và phân loại bạch cầu, quan sát xu hướng thay đổi, ngừng sử dụng trong 2 tuần nếu cần thiết để ngăn ngừa nhiễm trùng.
Giáo sư Li kết luận rằng hormon là lựa chọn tốt nhất để kiểm soát protein niệu, và thuốc ức chế miễn dịch là vũ khí chống lại tổn thương bệnh lý. Trong trường hợp chức năng thận bình thường:
Khi protein niệu dưới 1 g/ngày, tạm thời có thể quan sát được bệnh nhân mắc bệnh thận IgA loại II, và bệnh nhân loại III có thể xem xét áp dụng thuốc ức chế men chuyển (ACEI);
Khi protein trong nước tiểu là 1 ~ 3,5 g/ngày, bệnh nhân mắc bệnh thận IgA có thể kiểm soát protein nước tiểu bằng một lượng nhỏ hormone, và bệnh nhân loại III có thể sử dụng một nửa thuốc ức chế miễn dịch hormone;
Khi protein nước tiểu lớn hơn 3,5 g/ngày, bệnh nhân loại I cần được cung cấp đủ hormone để kiểm soát lượng protein trong nước tiểu, và bệnh nhân loại III nên được cung cấp đủ thuốc ức chế miễn dịch hormone;
Bệnh nhân loại IV cần dùng đủ các thuốc ức chế miễn dịch hormone.
Cần lưu ý khi điều trị bệnh nhân mắc bệnh thận IgA cần tính đến các bất thường về chuyển hóa, bao gồm hội chứng chuyển hóa, tăng lipid máu, tăng acid uric máu, tăng huyết áp.
Bệnh thận IgA là bệnh cầu thận nguyên phát phổ biến nhất trên toàn thế giới, với biểu hiện lâm sàng và bệnh lý rất đa dạng. Về mặt lâm sàng, bệnh có thể từ đại máu không triệu chứng đến viêm cầu thận tiến triển nhanh hoặc hội chứng thận hư, một phần của tình trạng giảm thiểu máu, liên quan đến tiên lượng. Về mặt bệnh lý, có thể tồn tại nhiều loại tổn thương cầu thận. Những đặc điểm này đã mang lại những khó khăn nhất định cho việc lựa chọn và xây dựng kế hoạch điều trị lâm sàng cho bệnh nhân bệnh thận IgA.
Tại cuộc họp thường niên năm 2016 của Chi hội Thận học của Hiệp hội Y tế tỉnh Hà Bắc được tổ chức từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 11 năm 2016, Giáo sư Li Xuemei từ Khoa Thận, Bệnh viện Đại học Y Công đoàn Bắc Kinh, đã chia sẻ tiến trình nghiên cứu và kinh nghiệm về liệu pháp miễn dịch của bệnh thận IgA.
Các chỉ số tiên lượng cho bệnh nhân mắc bệnh thận IgA
Tỷ lệ sống được thống kê của 495 bệnh nhân mắc bệnh thận IgA tại Bệnh viện Đại học Y tế Công đoàn Bắc Kinh cho thấy trong số những bệnh nhân này, tỷ lệ sống sót của những bệnh nhân có protein nước tiểu trong 24 giờ ≥3 g, nồng độ creatinin huyết thanh ≥133 µmol/L, và tăng huyết áp và tiểu máu đại thể thấp hơn. Năm 2004, D'Amico và cộng sự đã phân tích 23 tài liệu liên quan trong 20 năm qua và nhận thấy rằng suy thận, protein niệu nặng và tăng huyết áp khi sinh thiết thận là những dấu hiệu tiên lượng đáng tin cậy về mặt lâm sàng, và protein niệu trong thời gian theo dõi mạnh hơn. Các chỉ số dự đoán. Năm 2011, phân tích 1126 bệnh nhân mắc bệnh thận IgA được báo cáo bởi Le Weibo và cộng sự cũng cho thấy rằng protein nước tiểu > 1 g/24 giờ, huyết áp > 140/90 mmHg và eGFR <60 ml/(m²) trong sinh thiết thận là tiên lượng của thận. Các yếu tố nguy cơ độc lập đối với bệnh nhân; protein nước tiểu trung bình theo dõi > 1 g/24 giờ gặp 9,8 lần nguy cơ bước vào giai đoạn cuối gặp 9,8 lần so với protein nước tiểu <1 g/24 giờ. Cũng có sự khác biệt rất đáng kể giữa áp lực động mạch trung bình theo dõi và tiên lượng thận dài hạn. Tương quan.
Dựa trên các nghiên cứu và tài liệu ở trên, Giáo sư Li đã chỉ ra rằng các yếu tố tiên lượng mạnh mẽ về tiên lượng của bệnh nhân mắc bệnh thận IgA bao gồm: tăng creatinin huyết thanh, protein niệu nặng, tăng huyết áp, xơ vữa cầu thận mở rộng và/hoặc phân đoạn và/hoặc các ống thận trọc. Tổn thương kẽ, cầu thận và tổn thương mô ống dẫn đến có điểm số cao hoặc tổn thương loại IV và loại V; các chỉ số tiên lượng trung bình bao gồm: tăng huyết áp mạch máu, tăng sản ngoài mao mạch đáng kể. Dưới góc độ các yếu tố bệnh lý, Giáo sư Li đã kết hợp nghiên cứu liên quan của Bệnh viện Đại học Y liên hiệp Bắc Kinh và Bệnh viện đầu tiên của Đại học Bắc Kinh và so sánh với nghiên cứu của Oxford. Trong số các chỉ số phân loại của Oxford, chỉ có teo ống thận/xơ hóa mô kẽ là ảnh hưởng đến thận. Các yếu tố nguy cơ độc lập để tiên lượng.
Chỉ số theo dõi hoạt động bệnh thận IgA
Giáo sư Li chỉ ra rằng trong điều trị bệnh nhân mắc bệnh thận IgA, cần xác định chính xác các tổn thương hoạt động cấp tính càng sớm càng tốt, điều này rất quan trọng để kiểm soát kịp thời tiên lượng của bệnh.
Các chỉ số lâm sàng để đánh giá tình trạng bệnh thận IgA bao gồm: tiểu máu nặng dần, tiểu đạm, huyết áp tăng và giảm chức năng thận. Trong các chỉ số xét nghiệm, sự gia tăng IL-6 niệu có liên quan chặt chẽ đến sự tăng sinh của tế bào trung bì và tổn thương mô kẽ. Mối quan hệ của các hoạt động đang được nghiên cứu. Giáo sư Li nhấn mạnh rằng “các chỉ số bệnh lý là những chỉ số vàng để đánh giá hoạt động của bệnh thận IgA, bao gồm tăng sinh tế bào trung bì, tăng sinh nội mao mạch, hình liềm tế bào, hoại tử fibrinoid vòng mao mạch, thâm nhiễm tế bào viêm kẽ và phù nề, podocyte rụng hoặc mất tích,…”. Vì vậy, việc sinh thiết và sinh thiết nhiều lần là rất quan trọng.
Liệu pháp miễn dịch cho bệnh nhân mắc bệnh thận IgA
Giáo sư Li lần đầu tiên nhấn mạnh rằng tổn thương miễn dịch là cơ chế gây bệnh của bệnh thận IgA, vì vậy ức chế miễn dịch là cơ sở để điều trị bệnh thận IgA. Chìa khóa để dùng thuốc cho bệnh nhân mắc bệnh thận IgA là các thế hệ hóa và tiến bộ theo thời đại.
Trong suốt quá trình điều trị trong 30 năm qua, liệu pháp hormon tiêm tĩnh mạch hoặc uống có tác dụng đáng kể trong việc giảm tỷ lệ bài tiết protein và ngăn ngừa tăng nồng độ creatinin trong máu; điều trị kết hợp hormon và thuốc độc tế bào có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót sau thận của bệnh nhân mắc bệnh thận IgA tiến triển. , cũng có thể làm giảm đáng kể sự bài tiết protein niệu.
Giáo sư Li chỉ ra rằng sử dụng hợp lý và an toàn các chất ức chế miễn dịch có thể cải thiện tiên lượng của bệnh nhân mắc bệnh thận IgA. Trong nghiên cứu nói trên của Bệnh viện Đại học Y tế Công đoàn Bắc Kinh, tỷ lệ sử dụng hormone và thuốc ức chế miễn dịch cao tới 65% và 82%. Ở thời gian theo dõi trung bình trong 39 tháng, tỷ lệ mắc bệnh thận giai đoạn cuối chỉ là 2,8%.
Trong số các thuốc ức chế miễn dịch, cyclophosphamide (CTX) là loại thuốc được lựa chọn. Ngoài ra, cũng có thể sử dụng mycophenolate mofetil (MMF), và các chất ức chế calmodulin (cyclosporine A, FK506), hydroxychloroquine và Imuran cũng là những chất ức chế miễn dịch tùy chọn. Trong quá trình áp dụng thuốc ức chế miễn dịch, cần theo dõi tổng số và phân loại bạch cầu, quan sát xu hướng thay đổi, ngừng sử dụng trong 2 tuần nếu cần thiết để ngăn ngừa nhiễm trùng.
Giáo sư Li kết luận rằng hormon là lựa chọn tốt nhất để kiểm soát protein niệu, và thuốc ức chế miễn dịch là vũ khí chống lại tổn thương bệnh lý. Trong trường hợp chức năng thận bình thường:
Khi protein niệu dưới 1 g/ngày, tạm thời có thể quan sát được bệnh nhân mắc bệnh thận IgA loại II, và bệnh nhân loại III có thể xem xét áp dụng thuốc ức chế men chuyển (ACEI);
Khi protein trong nước tiểu là 1 ~ 3,5 g/ngày, bệnh nhân mắc bệnh thận IgA có thể kiểm soát protein nước tiểu bằng một lượng nhỏ hormone, và bệnh nhân loại III có thể sử dụng một nửa thuốc ức chế miễn dịch hormone;
Khi protein nước tiểu lớn hơn 3,5 g/ngày, bệnh nhân loại I cần được cung cấp đủ hormone để kiểm soát lượng protein trong nước tiểu, và bệnh nhân loại III nên được cung cấp đủ thuốc ức chế miễn dịch hormone;
Bệnh nhân loại IV cần dùng đủ các thuốc ức chế miễn dịch hormone.
Cần lưu ý khi điều trị bệnh nhân mắc bệnh thận IgA cần tính đến các bất thường về chuyển hóa, bao gồm hội chứng chuyển hóa, tăng lipid máu, tăng acid uric máu, tăng huyết áp.